Chùa Quán Sứ (舘使寺) là một ngôi chùa ở số 73 phố Quán Sứ, phường Trần Hưng Đạo, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội. Trước đây,[khi nào?] địa phận này thuộc thôn An Tập, phường Cổ Vũ, tổng Tiền Nghiêm (sau đổi là tổng Vĩnh Xương), huyện Thọ Xương.
Lịch sử
Chùa Quán Sứ được xây dựng vào thế kỷ 15. Nguyên xưa ở phường Cổ Vũ chưa có chùa, chỉ có mấy gian nhà tranh ở phía Nam, dân làng dùng làm chỗ tế thần cầu yên gọi là xóm An Tập. Theo sách Hoàng Lê Nhất Thống Chí, vào thời vua Lê Thế Tông, các nước Chiêm Thành, Ai Lao thường cử sứ giả sang triều cống Việt Nam. Nhà vua cho dựng một tòa nhà gọi là Quán Sứ để tiếp đón các sứ thần đến Thăng Long. Vì sứ thần các nước này đều sùng đạo Phật nên lại dựng thêm một ngôi chùa cũng nằm trong khuôn viên Quán Sứ để họ có điều kiện hành lễ. Thời gian đã xóa đi dấu khu nhà Quán Sứ nhưng ngôi chùa thì vẫn tồn tại.
Theo bài văn của Tiến sĩ Lê Duy Trung khắc trên tấm bia dựng năm 1855, vào đầu đời Gia Long (1802-1819) chùa gần đồn Hậu Quân. Đến năm 1822, chùa được sửa sang để làm chỗ lễ bái cho quân nhân ở đồn này. Khi quân ở đồn này rút đi, chùa được trả lại cho dân làng. Nhà sư Thanh Phương trụ trì ở chùa lúc đó mới làm thêm các hành lang, tô tượng, đúc chuông. Tiền đường của chùa thờ Phật, còn hậu đường thờ vị quốc sư Minh Không thời Nhà Lý.
Năm 1934, Tổng hội Phật giáo Bắc Kỳ thành lập, chùa Quán Sứ được chọn làm trụ sở trung ương. Năm 1942 chùa đã được xây dựng lại theo bản thiết kế của hai kiến trúc sư Nguyễn Ngọc Ngoạn và Nguyễn Xuân Tùng do chính Tổ Vĩnh Nghiêm duyệt.
Kiến trúc
Tam quan của chùa có ba tầng mái, nằm giữa là lầu chuông. Qua tam quan là một sân rộng lát gạch, bước lên 11 bậc thềm là tới chánh điện cao, hình vuông, xung quanh có hành lang. Điện Phật được bài trí trang nghiêm, các pho tượng đều khá lớn và thếp vàng lộng lẫy. Phía trong cùng, thờ ba vị Tam thế Phật trên bậc cao nhất. Bậc kế tiếp thờ tượng Phật A-di-đà ở giữa, hai bên có tượng Quan Thế Âm và Đại Thế Chí. Bậc dưới đó, ở giữa thờ Phật Thích ca, hai bên là A-nan-đà và Ca-diếp. Bậc thấp nhất, ở ngoài cùng có tòa Cửu Long đứng giữa tượng Quan Âm và Địa Tạng. Gian bên phải chánh điện thờ Lý Quốc Sư (tức Thiền sưMinh Không) với hai thị giả, gian bên trái thờ tượng Đức Ông và tượng Châu Sương, Quan Bình.
Phía Đại Hùng Bảo Điện là nhà thờ Tổ, nơi thời Lịch Đại Tổ Sư của Phật giáo Việt Nam. Đây là ngôi chùa hiếm có trên đất bắc Việt Nam, tuy xây từ lâu đời nhưng luôn gìn giữ chính pháp và đặc biệt " không thờ mẫu tam tứ phủ " trong chùa vì đây là một dạng tín ngưỡng bản địa không thuộc Phật giáo.
Hai bên và đằng sau sân là các dãy nhà dùng làm thư viện, giảng đường, nhà khách và tăng phòng.
Chùa Quán Sứ có lẽ là một trong rất ít ngôi chùa ở Việt Nam mà tên chùa cũng như nhiều câu đối đều được viết bằng chữ quốc ngữ. Phải chăng vì ngôi chùa được xây dựng lại vào giữa thế kỷ 20 và vì chùa đã trở thành trụ sở trung tâm của Tổng hội Phật giáo Bắc Việt, nay là của Giáo hội Phật giáo Việt Nam, ngôi Quốc tự chung của các thiện nam tín nữ trên đất Việt. Phân viện Nghiên cứu Phật học thuộc Giáo hội và văn phòng tổ chức Phật giáo Châu Á vì hòa bình (ở Việt Nam) cũng đặt ở đây.
Nửa thế kỷ nay, chùa Quán Sứ đã chứng kiến nhiều hoạt động quan trọng của Phật giáo Việt Nam, trong đó có sự thống nhất tổ chức Phật giáo trong nước và sự hòa nhập của Phật giáo Việt Nam với Phật giáo thế giới. Chính nơi đây vào ngày 13 tháng 5 năm 1951 (mồng 8 tháng 4 năm Tân Mão) lần đầu tiên lá cờ Phật giáo thế giới do Thượng tọaThích Tố Liên mang về từ Colombo đã xuất hiện trên bầu trời Hà Nội.
Năm 1981 sau khi thống nhất các tổ chức Phật giáo và thành lập Giáo Hội Phật giáo Việt Nam, nhiệm vụ cấp bách khi đó là đào tạo tăng tài nên giáo hội đã thành lập Trường Cao Cấp Phật Học Trung Ương tại Hà Nội có cơ sở là Chùa Quán Sứ. Đây chính là tiền thân của Học Viện Phật giáo Việt Nam tại Hà Nội sau này. Trường tổ chức chiêu sinh khóa 1 (1981-1985), khi đó tăng sinh đều là con em của các tổ đình lớn đất bắc và sau đó trở thành các nhà lãnh đạo của giáo hội hiện nay như:
Hòa Thượng Thích Thanh Thiền, chùa Quán Sứ.
Hòa Thượng Thích Mật Hựu.
Hòa Thượng Thích Viên Thành (1950 - 2002), Phó ban Giáo dục Tăng Ni Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Phó Ban Văn hóa Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Trưởng Ban Trị sự Phật giáo tỉnh Phú Thọ, Phó Ban Trị sự Phật giáo tỉnh Hà Tây,.... Trụ trì Chùa Hương, Chùa Thầy, Chùa Vạn Niên.
Hòa Thượng Thích Thanh Nhiễu (1952). Phó chủ tịch thường trực Hội đồng trị sự TƯ GHPGVN, trụ trì chùa Quán Sứ.
Hòa Thượng Thích Thanh Nhã (1950), Chánh văn phòng Hội đồng chứng minh, Phó ban trị sự PG Hà Nội, Trụ trì chùa Trấn Quốc. (Chủ Tịch Hội Cựu Tăng Ni Sinh)
Hòa Thượng Thích Thanh Lương (1949), Chứng minh ban trị sự Nam Định.
Hòa thượng Thích Thanh Duệ (1951), Trưởng Ban trị sự PG tỉnh Vĩnh Phúc.
Hòa Thượng Thích Gia Quang (1954), Phó chủ tịch Hội đồng trị sự, Trưởng ban thông tin truyền thông, trụ trì chùa liên Phái.
Hòa thượng Thích Bảo nghiêm (1956), Phó chủ tịch hội đồng trị sự, trưởng ban trị sự PG Hà Nội, trụ trì chùa Lý Triều Quốc Sư.
Hòa Thượng Thích Quảng Tùng (1953), Phó chủ tịch hội đồng trị sự, Trưởng ban trị sự PG Hải phòng, trụ trì chùa Dư Hàng.
Hòa Thượng Thích Thanh Điện (1958), Phó tổng thư ký Hội đồng trị sư, Chánh văn phòng I TƯ, trụ trì chùa Duệ Tú.
Hòa Thượng Thích Thanh Giác (1957), phó ban trị sự PG hải Phòng, trụ trì chùa Phổ Chiếu.
Hòa Thượng Thích Thanh Đạt (1955), Nguyên Viện Trưởng Học viện PG VN tại Hà Nội.
Hòa Thượng Thích Thanh Hưng (1952), Uỷ viên thừong trực Hội đồng trị sự, trụ trì chùa Thiên Phúc.
Thượng Tọa Thích Nguyên Hạnh (1957), Trưởng ban trị sự PG quận Tây Hồ, Hà Nội, trụ trì chùa tảo Sách.
Thượng Tọa Thích Thanh Phúc (1954), Phó trưởng ban trị sự PG Hà Nội, trụ trì Chùa Châu long.
Thượng Tọa Thích Thanh Phương (1960 - 2013), Chánh Thư Ký Ban Trị Sự PG Tỉnh Thái Bình, Trụ Trì Chùa Vĩnh Quang.
Ni trưởng Thích Đàm Nghiêm, Phó trưởng phâ ban thường trực phân ban ni giới Trung ương.
Ni sư Thích Đàm Lan (1956), Phó trưởng phân ban ni giới TƯ, trụ trì chùa Bồ Đề.