Năm 2004 bà đoạtGiải John J. Carty cho thăng tiến Khoa học của Viện hàn lâm Khoa học quốc gia Hoa Kỳ. Năm 2009, bà Ostrom cùng Oliver E. Williamson được Viện Hàn lâm Khoa học Hoàng gia Thụy Điển tặng giải Nobel kinh tế vì những đóng góp quyết định của họ trong lý luận về quản lý nguồn lực chung. Bà trở thành phụ nữ đầu tiên chiếm giải Nobel về kinh tế. Trước khi nhận giải Nobel Kinh tế, bà đã nhận một số giải trong lĩnh vực khoa học chính trị, như giải Johan Skytte (năm 1999), giải James Madison (năm 2005), giải William H. Riker (năm 2008), và Tisch Civic Engagement Research Prize (năm 2009).
Một số công trình chủ yếu
Governing the Commons: The Evolution of Institutions for Collective Action Ostrom, Elinor, Cambridge University Press, 1990
Institutional Incentives and Sustainable Development: Infrastructure Policies in Perspective Ostrom, Elinor, and Schroeder, Larry, and Wynne, Susan, Oxford: Westview Press, 1993
with Crawford, Sue E. S., "A Grammar of Institutions." American Political Science Review 89, no.3 (tháng 9 năm 1995): 582–600.
A Behavioral Approach to the Rational Choice Theory of Collective Action: Presidential Address, American Political Science Association, 1997. Ostrom, Elinor, The American Political Science Review 92(1): 1–22. 1998
Trust and Reciprocity: Interdisciplinary Lessons for Experimental Research, Volume VI in the Russell Sage Foundation Series on Trust, Elinor Ostrom and James Walker, Editors, Russell Sage Foundation, 2003